Dòng nước mát lành
Trong địa bàn thôn, có hơn 100 hộ dân sử dụng nguồn nước mưa tự nhiên và nước từ mương tưới tiêu nông nghiệp làm nguồn nước sinh hoạt gia đình. Bác Toản, một người dân trong thôn cho biết đến nay đã 4 đời chủ tịch xã (khoảng gần 15 năm), không có bất kỳ cuộc tiếp xúc cử tri nào. Từ đó đến nay, người dân đã nhiều lần đưa ra đề xuất, kiến nghị về vấn đề nước sinh hoạt của bà con trong thôn nhưng đều không được giải quyết. Trong 5 năm trở lại đây có 4 người dân trong thôn bị xác định mắc bệnh ung thư, các bệnh ngoài da và đường ruột thường xuyên xảy ra, đặc biệt là vào mùa hè.
Thôn 8, xã Quảng Liên, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình có 123 hộ dân với 472 nhân khẩu, trong đó có 60 hộ thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo và hộ hưởng chính sách. Cộng đồng định cư nơi đây từ những năm 1977. Với đặc điểm vùng nông thôn, đồi núi, thu nhập của cộng đồng chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp và nhân giống cây lâm nghiệp. Đời sống kinh tế của nhiều hộ dân đang rất khó khăn. Do đặc điểm địa hình đồi dốc nên hệ thống đường sá đi lại khó khăn, bị xói lở, ngập úng. Đặc biệt, nước sinh hoạt ở đây rất thiếu thốn và không đảm bảo cho điều kiện sinh hoạt cơ bản.
Trong địa bàn thôn, có hơn 100 hộ dân sử dụng nguồn nước mưa tự nhiên và nước từ mương tưới tiêu nông nghiệp làm nguồn nước sinh hoạt gia đình. Bác Toản, một người dân trong thôn cho biết đến nay đã 4 đời chủ tịch xã (khoảng gần 15 năm), không có bất kỳ cuộc tiếp xúc cử tri nào.Từ đó đến nay, người dân đã nhiều lần đưa ra đề xuất, kiến nghị về vấn đề nước sinh hoạt của bà con trong thôn nhưng đều không được giải quyết. Trong 5 năm trở lại đây có 4 người dân trong thôn bị xác định mắc bệnh ung thư, các bệnh ngoài da và đường ruột thường xuyên xảy ra, đặc biệt là vào mùa hè.
Tháng 4 năm 2014, cộng đồng trong thôn tiếp cận dự án Thúc đẩy Quản lý cộng đồng tại Việt Nam - giai đoạn 2 do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Thụy Sỹ (SDC) tài trợ. Cộng đồng phân tích các thuận lợi và khó khăn, lựa chọn các ưu tiên và nước sinh hoạt cho 30 hộ dân vùng đỉnh đồi là ưu tiên hàng đầu. Tuy là vấn đề bức xúc và ưu tiên số một của cộng đồng nhưng việc triển khai lại gặp không ít khó khăn và nghi ngại về tính khả thi của tiểu dự án. Do trước đây có nhiều hộ đào được giếng nhưng không thể dùng được vì nguồn nước nhiễm phèn, một vài người còn “lo sợ mất vốn” từ tiểu dự án này. Sau nhiều buổi họp bàn, 30 hộ dân nhất trí xây dựng đề xuất tiểu dự án “Cải thiện điều kiện nước sinh hoạt cho 30 hộ dân” và thống nhất vị trí đào giếng tại Nhà văn hóa của thôn.
Kế hoạch được lập, tiểu dự án được thẩm định, cộng đồng thận trọng tiến hành thăm dò nguồn nước bằng cách thuê máy đào thử. Kết quả không phụ lòng cộng đồng nơi đây, nguồn nước giếng đào trong mát, ngọt lịm thỏa mong chờ của mọi người.
Với tổng ngân sách Tiểu dự án được phê duyệt 31.350.000 đồng, trong đó đề xuất dự án hỗ trợ 26.300.000 đồng, cộng đồng đóng góp 5.050.000 đồng. Nhưng sau khi hoàn thành, tổng ngân sách của tiểu dự án lên đến 38.000.000 đồng, trong đó hỗ trợ từ Dự án là 25.200.000 đồng, cộng đồng đóng góp 12.800.000 đồng.
Chị Lan (người hưởng lợi trực tiếp) tươi cười kể lại “…Trước khi chưa có giếng nước, cả làng sống nhờ nước mưa và nước mương. Việc tắm, giặt, sinh hoạt chủ yếu sử dụng nước mương tưới tiêu, muốn bơm nước mương phải chờ 1-2 giờ sáng lúc không còn người mô tắm giặt trên mương mới bơm nước vào bể được, đêm hôm cả nhà thức chờ bơm nước, canh máy bơm, rải ống nước. Nay có giếng làng, tui lắp vòi bơm cố định, mua máy bơm đặt trong nhà khi cần thì cắm điện chạy máy bơm là có nước dùng, nhàn lắm chú ơi”.
Niềm vui của người dân khi có nước sạch
Niềm vui của người dân khi có nước sạch
Tiểu dự án đang hoàn công, cộng đồng nơi đây cũng đang hoàn thành một số tiểu dự án khác áp dụng quy trình Quản lý cộng đồng. Tôi tin chắc họ sẽ phát huy tối đa vai trò chủ động của cộng đồng nhằm cải thiện điều kiện sống của người dân nơi đây.
Quảng Liên, ngày 11 tháng 9 năm 2013
Người viết: Trần Đăng Quang, cán bộ dự án PCM 2